Chính sách thuế đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Vấn đề đặt ra là chính sách thuế tác động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế, thu nhập và chi tiêu của người dân, doanh nghiệp cũng như các vấn đề xã hội khác như việc làm, môi trường hay bình đẳng xã hội.
Song, để đánh
giá mức độ tác động thì mô hình nghiên cứu áp dụng như thế nào đang là một câu
hỏi lớn cho Việt Nam. Bài viết đánh giá tác động của chính sách thuế đến phát
triển kinh tế - xã hội tại một số quốc gia, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam trong việc đánh giá chính sách, củng cố thêm cơ sở để điều chỉnh
và điều hành chính sách phù hợp với thực tiễn.
Tác động của chính sách thuế đối với phát
triển kinh tế
Tại một số quốc gia phát triển
Tosun và Abizahed
(2005) đã sử dụng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên nghiên cứu mối quan hệ giữa chính
sách thuế và tăng trưởng kinh tế ở 21 quốc gia thành viên của Tổ chức Hợp tác
và Phát triển Kinh tế (OECD) trong giai đoạn 1980-1999. Kết quả chỉ ra rằng, có
mối quan hệ giữa thuế và tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, nghiên cứu tìm thấy tác
động tích cực và có ý nghĩa thống kê của thuế thu nhập cá nhân (TNCN) và thu
nhập doanh nghiệp (TNDN) đến tăng trưởng kinh tế của nhóm nước này. Tuy nhiên,
mức độ tác động của các loại thuế là khác nhau đến tăng trưởng kinh tế (tính
trên GDP bình quân đầu người).
Szarowska (2010)
nghiên cứu về những thay đổi về thuế và tác động của chúng đối với tăng trưởng
kinh tế ở các nước Liên minh châu Âu (EU) thông qua sử dụng dữ liệu bảng có
điều chỉnh hàng năm của 24 quốc gia thuộc EU trong giai đoạn 1995-2008 dựa trên
tổng thay đổi hạn ngạch thuế đối với tăng trưởng GDP. Kết quả chỉ ra tác động
nghịch chiều và có ý nghĩa thống kê của thuế đối với tăng trưởng GDP. Cụ thể,
tăng tổng hạn ngạch thuế lên 1% sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP 0,29%, trong
khi đó, nếu cắt giảm hạn ngạch thuế 1% sẽ làm tăng GDP thêm 0,43%.
Một nghiên cứu
khác của Rudolf (2015) đánh giá tác động của từng loại thuế riêng lẻ đến tăng
trưởng kinh tế bằng cách sử dụng phân tích hồi quy dữ liệu bảng ở các quốc gia
thành viên OECD giai đoạn 2000-2011. Kết quả nghiên cứu cho thấy, thuế TNDN,
TNCN và thuế an sinh xã hội có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Tại một số quốc gia ở châu Á
Ihtsham U.H Padda
và Naeem Akram (2009) đã nghiên cứu tác động của thuế suất đến tăng trưởng kinh
tế tại 03 quốc gia Nam Á là Sri Lanka, Ấn Độ và Pakistan. Với dữ liệu thu thập
trong giai đoạn 1973-2008, sử dụng GDP đầu người là thang đo cho tăng trưởng
kinh tế, các tác giả đã chỉ ra rằng, thuế suất chỉ có tác động ngược chiều đến
tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn.
Taha và cộng sự
(2011) chứng minh được quan hệ đồng liên kết trong dài hạn giữa số thu thuế và
tốc độ tăng trưởng kinh tế tại quốc gia trong khu vực Đông Nam Á trong khoảng
thời gian từ 1970 đến 2009. Bên cạnh đó, mô hình hiệu chỉnh sai số cũng được
nhóm tác giả đưa vào nghiên cứu để ước lượng được mức độ điều chỉnh của mức thu
thuế trong ngắn hạn nhằm đạt được mức thu thuế ổn định trong dài hạn, tương
xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Mô hình nghiên cứu
này cho thấy, mối quan hệ tác động qua lại giữa chính sách thuế và tăng trưởng
kinh tế, vì vậy, phương pháp phân tích nhân quả để kiểm định mối quan hệ này có
thể được áp dụng trong trường hợp của Việt Nam.
Tác động của chính sách thuế đến đời sống
xã hội
Rất khó để đánh
giá trực tiếp tác động của chính sách thuế đến đời sống xã hội, qua khảo lược
các nghiên cứu trước đây, tác giả đã chia nhóm các yếu tố phản ánh đời sống xã
hội thành 03 tiêu chí: Môi trường, việc làm và tình trạng đói nghèo. Cụ thể:
Tác động của chính sách thuế đến môi trường
Trong giai đoạn
hiện nay, các Chính phủ bắt đầu quan tâm đến việc sử dụng thuế bảo vệ môi
trường như là một công cụ hữu hiệu để giảm tác hại đến môi trường thông qua
thúc đẩy hành vi của các nhà sản xuất theo hướng tích cực. Wang và cộng sự
(2018) đã đánh giá tác động của thuế năng lượng tới môi trường, sức khỏe cộng
động và kinh tế TP. Thiên Tân. Sử dụng mô hình cân bằng chung, tích hợp với dữ
liệu đầu ra – đầu vào (bảng I-O) và ma trận hạch toán xã hội, kết quả nghiên
cứu cho thấy, thuế năng lượng có tác động tích cực đến GDP, tuy không cao nhưng
lại có tác động lớn môi trường, quy mô sản xuất của những ngành phát thải cao
giảm, vốn và lao động chuyển sang lĩnh vực phát thải và tiêu thụ năng lượng
thấp.
Mặc dù vậy, việc
nghiên cứu tác động của các sắc thuế này trong bối cảnh nghiên cứu tại Việt Nam
còn nhiều hạn chế do Luật Thuế bảo vệ môi trường mới được ban hành lần đầu vào
năm 2012, cho tới nay việc áp dụng sắc thuế này vẫn chưa bao phủ các đối tượng
gây ô nhiễm chính, các chuẩn gây ô nhiễm còn thấp so với các quốc gia khác… Vì
vậy, việc nghiên cứu tác động của các loại thuế môi trường đối với các vấn đề
xã hội hiện chưa thể kiểm chứng.
Tác động của chính sách thuế tới tỷ lệ thất nghiệp
Thực tế, tác động
của chính sách thuế tới tỷ lệ thất nghiệp ít khi được đo lường trực tiếp mà
thường thông qua một kênh gián tiếp cụ thể. Zellner và Ngoie (2015) sử dụng mô
hình kinh tế vĩ mô Marshall để dự đoán rằng, việc cắt giảm thuế vĩnh viễn sẽ
giúp tăng trưởng GDP. Theo các tác giả, việc giảm 5% thuế TNCN và TNDN dẫn đến
tăng 3 điểm phần trăm GDP. Lora và Fajardo (2012) sử dụng cách tiếp cận phân
tích hồi quy OLS với dữ liệu bảng để chứng minh tác động của các sắc thuế quỹ
lương, thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế TNDN đối với các chỉ số đại diện
cho tình trạng lao động tại 15 quốc gia khu vực châu Mỹ Latinh. Kết quả chỉ ra
rằng, tác động của mỗi loại thuế là khác nhau, cụ thể: Thuế quỹ lương làm giảm
việc làm và tăng chi phí sử dụng lao động; thuế GTGT làm giảm nhu cầu lao động
có tay nghề cao; thuế TNDN lại làm giảm như cầu lao động có trình độ trung bình
và lao động phổ thông.
Seward (2008)
nghiên cứu ảnh hưởng của thuế đối với việc làm và tăng trưởng kinh tế ở các
nước phát triển trong giai đoạn 1965-1995, nghiên cứu sử dụng mô hình dữ liệu
bảng. Kết quả cho thấy, thuế thu nhập tăng 10% sẽ làm tỷ lệ thất nghiệp tăng
5,3% và tăng trưởng giảm 2,1%.
Tỷ lệ thất nghiệp
của Việt Nam đang được thống kê theo phạm vi toàn quốc, vì vậy, mô hình hồi quy
tuyến tính thích hợp cho mục tiêu nghiên cứu nên là mô hình sử dụng dữ liệu
chuỗi thời gian.
Tác động của chính sách thuế tới tình trạng đói nghèo
Một trong những
chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển của xã hội là mức độ nghèo đói, thể hiện
thông qua tỷ lệ hộ nghèo. Các nghiên cứu trên thế giới về mối quan hệ giữa
chính sách thuế và vấn đề nghèo đói tương đối phổ biến và đa dạng về cách tiếp
cận. Tại các quốc gia phát triển, Moisio và cộng sự (2016) đã sử dụng tỷ lệ hộ
nghèo để đánh giá tác động của thay đổi chính sách thuế tại Phần Lan giai đoạn
1993-2010. Kết quả cho thấy, thay đổi về chính sách thuế có ảnh hưởng đáng kể
đến tỷ lệ đói nghèo ở nước này.
Các mô hình được
sử dụng phổ biến để đánh giá tác động của thuế đến phát triển kinh tế - xã hội
hiện nay gồm:
- Mô hình đầu vào
- đầu ra IO: Tuy ưu điểm của mô hình này rất thuận tiện để phân tích tác động,
nhưng lại gặp bất lợi khi đòi hỏi thu thập một lượng dữ liệu lớn trong thời
gian ngắn, kèm với đó là những giả định về các tác nhân trong nền kinh tế là
hoàn hảo, nên khó áp dụng trong trường hợp thực tiễn tại Việt Nam.
- Mô hình cân bằng
tổng thể CGE: Trái ngược với mô hình IO, mô hình CGE đòi hỏi công cụ thuật toán
sử dụng phức tạp, áp dụng trong nền kinh tế cạnh tranh tự do và mở hoàn toàn,
tuy nhiên lại thuận lợi khi sử dụng để đánh giá tác động của một biến cụ thể
nào đó lên tất cả các biến còn lại của mô hình.
- Mô hình chuỗi
thời gian: Với ưu điểm nhanh và đơn giản, mô hình này được sử dụng phổ biến để
dự báo cho tương lai, tuy nhiên, đòi hỏi phải thu thập một số lượng dữ liệu lớn
trong quá khứ với độ chính xác cao, do vậy, khi áp dụng mô hình này để phân
tích thực tế tại Việt Nam cần sử dụng thêm biến giả để tránh trường hợp có
những nhân tố tác động hoàn toàn mới với chính sách thuế đang được xem xét.
- Mô hình tự
hồi quy phân phối trễ ARDL: Mô hình này được chứng minh là phù hợp với cỡ mẫu
nhỏ và chỉ ra được tác động ngắn hạn và dài hạn của biến độc lập lên biến phụ
thuộc, điều này phù hợp khi áp dụng tại Việt Nam.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Từ kinh nghiệm các
nước cho thấy, cùng với những thách thức nội tại, rõ ràng Việt Nam cần vận dụng
chính sách thuế một cách phù hợp thì mới có thể tạo động lực thúc đẩy đổi mới
mô hình tăng trưởng kinh tế, vừa phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu phát
triển đất nước. Theo đó, khi đánh giá tác động của chính sách thuế đến phát
triển kinh tế - xã hội cần lưu ý những vấn đề cụ thể sau:
Một là, các tác động khác nhau của chính sách thuế trong
ngắn hạn và dài hạn: Từ
kết quả nghiên cứu của các nước trên thế giới, cho thấy, mức độ tác động của
chính sách thuế có sự khác biệt rõ rệt trong ngắn hạn và dài hạn, đặc biệt đối
với tăng trưởng kinh tế. Việc giảm thuế suất một số loại thuế cơ bản như thuế
thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu dùng có thể khiến tăng trưởng sản xuất,
kích thích tiêu dùng trong giai đoạn đầu nhưng đến một lúc nào đó, khi số thu
ngân sách từ thuế không được bù bởi nguồn khác, Chính phủ bắt buộc phải cắt
giảm chi tiêu công. Điều này dẫn đến cơ sở hạ tầng sẽ không được chú trọng đầu
tư, dự trữ quốc gia sụt giảm, tiếp đó, có thể gây tác động tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế. Vì vậy, khi quyết định điều chỉnh chính sách thuế hay một sắc
thuế nhất định, cần phải đánh giá một cách toàn diện để tìm ra những giải pháp
tối ưu.
Hai là, lựa chọn mô hình nghiên cứu phù hợp: Các mô hình hay phương pháp nghiên cứu
được áp dụng rất đa dạng ở các quốc gia khác nhau. Mặc dù mô hình cân bằng tổng
thể là mô hình tối ưu nhất được sử dụng để đánh giá tác động của chính sách
thuế. Nhưng khi áp dụng tại Việt Nam thì cần phải tính toán đến yếu tố kỹ thuật
và trình độ của đội ngũ nghiên cứu, cũng như có những điều chỉnh thích hợp hoặc
bổ sung thêm mô hình khác để củng cố kết quả nghiên cứu.
Ba là, dữ liệu nghiên cứu đóng vai trò vô cùng quan trọng: Các nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng
trên phạm vi quốc gia đưa ra quá ít thông tin đáng tin cậy phục vụ cho việc
thực hiện chính sách ở từng quốc gia. Vì vậy, áp dụng mô hình sử dụng dữ liệu
bảng kết hợp từ dữ liệu của các tỉnh, thành qua thời gian sẽ giúp đáp ứng mục
tiêu nghiên cứu tác động của chính sách thuế đối với phát triển kinh tế - xã
hội tại Việt Nam.
Bài Viết khác:
Công ty dich vu ke toan kiem toan quan 12 tp ho chi Minh
Cong ty dich vu ke toan thue tai quan Tan Binh
Hoàn thuế GTGT và các vấn đề về thuế GTGT
No Comment