Cơ hội và thách thức phát triển ngân hàng số
Cùng với cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0, xu hướng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực tài chính (Fintech) diễn
ra hết sức mạnh mẽ đã và đang mang lại rất nhiều cơ hội cũng như những thách thức
cho hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động phát triển dịch vụ thanh toán dựa
trên công nghệ ngân hàng số nói riêng của các ngân hàng thương mại. Bài viết tập
trung làm rõ thực trạng chuyển động Fintech tại Việt Nam hiện nay và đưa ra
khuyến nghị đối với việc phát triển ngân hàng số.
Xu thế phát triển công nghệ
Fintech được hiểu
là công nghệ tài chính, với những ứng dụng mới nhất về công nghệ trong lĩnh vực
ngân hàng – tài chính. Nằm trong xu hướng Cách mạng công nghiệp lần thứ 4,
Fintech đã và đang mang tới những sự đổi mới, sáng tạo làm thay đổi bộ mặt của
hệ thống ngân hàng - tài chính truyền thống khi chuyển sang công nghệ ngân hàng
số. Fintech giúp các ngân hàng có thể giải quyết tính thiếu hiệu quả của các
sản phẩm, dịch vụ tài chính truyền thống vốn bị giới hạn về thời gian,
không gian cũng như quy trình, thủ tục giao dịch phức tạp....
Bên cạnh đó,
Fintech cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phổ cập tài chính của
các quốc gia thông qua tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính tới một
bộ phận người dân chưa có tài khoản ngân hàng hoặc khó khăn trong việc tiếp cận
các dịch vụ tài chính – ngân hàng truyền thống; hỗ trợ các quốc gia nhanh chóng
đạt được mục tiêu phổ cập tài chính qua đó thúc đẩy sự phát triển cũng như công
bằng xã hội.
Nắm bắt, hợp tác
và ứng dụng hiệu quả Fintech là một cơ hội cũng như là một giải pháp hữu hiệu
để các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu,
nâng cao sức mạnh cạnh tranh của các tổ chức tín dụng (TCTD) trong giai đoạn
đến năm 2020, đặc biệt là thực hiện thành công Đề án của Chính phủ và Kế hoạch
của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về phát triển thanh toán không dùng tiền mặt
(TTKDTM). Trong đó, phấn đấu đến cuối năm 2020, tỷ trọng tiền mặt trên tổng
phương tiện thanh toán ở mức dưới 10%; đến cuối năm 2025, ở mức dưới 8%...
Những cơ hội ứng dụng công nghệ trong giao
dịch và quản lý ngân hàng
Xu hướng ứng dụng
Fintech sẽ làm thay đổi các hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là những thay đổi
trong giao dịch và quản lý.
Một là, thanh toán điện tử qua ngân hàng sẽ nhanh chóng thay thế các
phương tiện thanh toán truyền thống (như tiền mặt, séc, thẻ tín dụng và ATM)
trong một số năm tới đây.
Thời gian qua, đã
có nhiều tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực tài chính – công nghệ, đặc biệt là
trong những ứng dụng cho hoạt động thanh toán hằng ngày. Hiện nay, khách hàng
có thể thực hiện các thao tác cho mọi giao dịch với ngân hàng thông qua điện
thoại thông minh - smartphone, hay ipad, laptop, thậm chí là có thể tích hợp
thanh toán ngay trên chiếc đồng hồ đeo tay, nhẫn và cả phương tiện di chuyển.
Điều này tạo điều kiện cho mọi đối tượng khách hàng, dù là cá nhân hay chủ
doanh nghiệp không phải mất thời gian và chi phí đến các điểm giao dịch của
ngân hàng mà mọi thứ đều trong tầm tay, online tức thì và tại chỗ. Do đó, không
chỉ có các giao dịch thanh toán bằng tiền mặt mà các loại thẻ, kể cả những tấm
séc cũng sẽ bị quên lãng trong tương lai.
Thực tế này không
chỉ diễn ra tại các nền kinh tế phát triển trên thế giới, mà cả những nước đang
phát triển như: Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan… Tại Việt Nam, xu hướng này đang
thay đổi khá rõ nét. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, hiện nay, ở Việt Nam tỷ
trọng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế chỉ còn chiếm
khoảng 12,5-13,5% so với tỷ trọng khoảng 30% cách đây trên 10 năm.
Theo báo cáo về
các thiết bị di động của hãng Ericsson, ước tính có tới 70% dân số toàn cầu sử
dụng điện thoại thông minh vào năm 2020. Đồng thời, mạng dữ liệu di động sẽ bao
phủ 90% dân số toàn thế giới. Việt Nam là một trong số ít quốc gia có tốc độ
người dân sử dụng thiết bị di động tăng nhanh nhất trên thế giới. Hiện nay, với
hơn 64 triệu người đang sử dụng mạng internet, chiếm gần 70% dân số; trên 72%
người dân sử dụng điện thoại thông minh, Việt Nam là thị trường tiềm năng cho
phát triển ngân hàng số, phát triển TTKDTM.
Hai là,
hợp đồng và văn bản bằng giấy sẽ bị thay thế tác động lớn đến quản lý rủi ro và
quản lý hồ sơ trong ngân hàng.
Sự ra đời của chữ
ký số đã hình thành một giải pháp mới cho các doanh nghiệp nói chung, trong đó
có cộng đồng ngân hàng – tài chính, đó là ký kết hợp đồng thông qua công nghệ
điện toán đám mây. Hợp đồng được lưu trên những “đám mây” bao gồm thông tin
định danh của các bên có liên quan, khả năng thanh toán theo hợp đồng mà không
cần phải in, scan hay fax. Đồng thời, hình thức này còn có ưu điểm là chủ động
phân phối các khoản thanh toán theo đúng nội dung của hợp đồng khi đến hạn.
Hình thức hợp đồng lưu trữ đám mây đang được kỳ vọng sẽ nâng cao hiệu quả làm
việc, cắt giảm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp, trong đó có các ngân
hàng.
Trong tương lai,
khi hình thức hợp đồng này sẽ phổ biến, quy trình quản lý hợp đồng sẽ có sự
thay đổi ngoạn mục và giúp thúc đẩy hiệu suất làm việc tốt hơn phương thức ký
kết hợp đồng truyền thống trên giấy in, tác động rất lớn đến các doanh nghiệp,
các NHTM. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra cho các NHTM là việc quản lý các hợp đồng
tín dụng, quản lý rủi ro, quản lý khách hàng. Các quy trình quản lý nội bộ bị
thay đổi, trình độ tác nghiệp và trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng phải
được nâng lên, ngay cả cán bộ làm công việc thanh toán trong ngân hàng cũng
phải được đào tạo lại thường xuyên.
Kết
quả ứng dụng ngân hàng số tại Việt Nam
Trong bối cảnh
Cách mạng công nghiệp 4.0, việc Chính phủ số hóa, các doanh nghiệp số hóa và
ngân hàng số hóa đang tạo điều kiện cho người dân Việt Nam làm quen dần với
việc thanh toán TTKDTM và chấp nhận sử dụng các dịch vụ thanh toán điện tử tiện
ích, dịch vụ thanh toán trên các thiết bị di động. Số lượng giao dịch tài chính
qua kênh internet tại Việt Nam năm 2019 đạt hơn 200 triệu lượt, với doanh số
trị giá hơn 10 triệu tỷ đồng; Trong 6 tháng đầu năm 2020 đạt trên 104 triệu
lượt giao dịch, với doanh số đạt 5,2 triệu tỷ đồng.
Đến nay, tại Việt
Nam có 78 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán qua internet và 45 tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán di động, với số lượng giao dịch lên đến vài trăm triệu
lượt và doanh số hơn 10 triệu tỷ đồng mỗi năm. Số liệu này cho thấy, TTKDTM
đang phát triển mạnh mẽ và phổ biến ở nước ta. Bên cạnh đó, có 26 tổ chức không
phải là ngân hàng đã được NHNN cấp phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian
thanh toán, trong đó có 23 tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử, tập trung những
tính năng nạp tiền điện thoại, thanh toán qua mã QR, thanh toán hóa đơn dịch vụ
cước điện thoại di động, hóa đơn điện nước, internet, các khoản vay tài chính,
vay trả góp, vay tiêu dùng, mua vé máy bay, vé xe, bảo hiểm…
Hiện nay đã có 50
NHTM ký kết triển khai dịch vụ thu thuế điện tử với thuế, hải quan trên phạm vi
63 tỉnh, thành phố và 768 quận, huyện trên cả nước; 26 NHTM ký kết với các công
ty điện lực thực hiện dịch vụ thu hộ tiền điện trên phạm vi toàn quốc; 26 NHTM
triển khai dịch vụ thu tiền nước sạch tại hơn 20 tỉnh, thành phố; 12 NHTM triển
khai phối hợp thu tiền học phí, đa số được triển khai tại các trường Đại học; 8
NHTM triển khai dịch vụ thu hộ viện phí tại các bệnh viện lớn; 6 NHTM phối hợp
chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội.
Các NHTM Việt Nam
đã chủ động nắm bắt phản ứng của các ngân hàng trên toàn cầu đối với Fintech
cũng như cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay và đang chủ động tích cực
triển khai theo chiến lược kinh doanh, phát triển dịch vụ thanh toán hiện đại,
tiện ích và an toàn theo nguồn lực tài chính cũng như khả năng ứng dụng của
mình. Nhiều NHTM đang chủ động và mạnh dạn đầu ứng dụng các công nghệ mới về
quản lý và giao dịch ngân hàng điện tử, công nghệ ngân hàng số…
Một số thách thức phát triển ngân hàng số
Trong phát triển
ngân hàng số, một số thách thức đặt ra gồm:
Một là, Cách mạng công nghiệp 4.0 và xu hướng Fintech thúc đẩy sự
cạnh tranh mạnh mẽ, thu hút đông đảo các công ty cung cấp giải pháp công nghệ,
các doanh nghiệp bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ hợp tác với các NHTM thực
hiện thanh toán điện tử, đáp ứng nhu cầu các sản phẩm dịch vụ tiện ích ngày
càng cao của khách hàng, tối đa hóa lợi nhuận của ngân hàng.
Tuy nhiên, xu
hướng này cũng đang đặt ra các thách thức lớn cho cộng đồng ngân hàng bởi các
công ty Fintech trong cạnh tranh thu hút khách hàng, mở rộng thị phần, đặc biệt
là trong các giao dịch cho vay trực tuyến, cho vay ngang hàng, quản lý tài
chính, quản lý danh mục đầu tư… lĩnh vực trước đây được coi là hoạt động kinh
doanh truyền thống, sân chơi riêng của các NHTM. Do đó, nếu các NHTM không tiếp
tục chủ động ứng dụng công nghệ mới, mạnh dạn đầu tư trang thiết bị hiện đại
thì sẽ bị mất thị phần, mất khách hàng.
Hai là, những tiến bộ công nghệ và dự báo về sự ra đời của những sản phẩm
thay thế trong giao dịch với ngân hàng và ứng dụng trong dịch vụ thanh toán của
ngân hàng nói trên sẽ diễn ra trong nhiều năm tới, nhưng hiện nay tại Việt Nam,
nhiều NHTM vẫn đang cố gắng phát triển thị trường thẻ. Vì vậy, các NHTM Việt
Nam cần nhanh chóng nhận ra những thay đổi của đông đảo khách hàng, có những
chuyển động cần thiết theo xu hướng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.
Ba là, còn
tồn tại khoảng trống pháp lý trong lĩnh vực Fintech tại Việt Nam, đặc biệt là
về hoạt động của ví điện tử, Mobile Money. Việc tạo lập môi trường pháp lý và
chính sách đầy đủ, nhằm hoàn thiện và phát triển các giải pháp công nghệ tài
chính, phù hợp với nhu cầu thị trường và khuôn khổ pháp lý theo thông lệ đang
đặt ra có tính cấp bách, nhằm thúc đẩy các hoạt động TTKDTM an toàn, hạn chế
rủi ro xảy ra cho khách hàng khi tham gia sử dụng các dịch vụ công nghệ ngân hàng
số.
Khuyến nghị giải pháp
Để tận dụng
các lợi ích của Fintech trong phát triển ngân hàng số, một số giải pháp cần lưu
ý thực hiện gồm
Một là, các NHTM Việt Nam cần tham khảo, học hỏi kinh nghiệm của các
ngân hàng lớn trên thế giới, các ngân hàng đang đi tiên phong về công nghệ ngân
hàng số tại một số nước trong khu vực, tranh thủ sự trợ giúp của các tổ chức
thẻ quốc tế, của các ngân hàng là cổ đông chiến lược để đáp ứng ngày càng tốt
nhất yêu cầu đảm bảo an toàn trong giao dịch thanh toán điện tử, thanh toán
trên các thiết bị di động, quét mã QR của khách hàng, giảm thiểu rủi ro.
Hai là, các NHTM cần tích cực, chủ động làm việc với các doanh nghiệp, các
tổ chức cung ứng dịch vụ công, các đơn vị và tổ chức khác có hoạt động thu
thường xuyên với doanh số lớn, như: trường học, bệnh viện, trạm thu phí giao
thông, trạm đăng kiểm xe cơ giới, công ty du lịch, công ty xăng dầu, viễn
thông, điện lực, nước sạch… để phát triển mạng lưới POS, thúc đẩy TTKDTM.
Ba là, các
NHTM cần chủ động hơn nữa trong nắm bắt những sản phẩm và dịch vụ ngân hàng
tiện ích mới xuất hiện trên thế giới, đầu tư ứng dụng vào ngân hàng mình; tăng
cường đầu tư nguồn lực tài chính, đầu tư cho công tác đào tạo lại nguồn nhân
lực cho ứng dụng công nghệ số… trong ngân hàng.
Bốn là, về phía các bộ ngành chức năng như: Bộ Tài chính, Bộ Công
Thương, Bộ Giao thông và Vận tải, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Thông tin
và Truyền thông… cần ban hành quy định khuyến khích hoạt động thanh toán thẻ,
thanh toán điện tử, thanh toán trên các thiết bị di động.
Năm là, NHNN Việt Nam và các cơ quan chức năng ở Việt Nam cần tham khảo
kinh nghiệm các nước để xây dựng một khuôn khổ pháp lý đầy đủ và đồng bộ cho
hoạt động Fintech, Mobile Money, công nghệ ngân hàng số tại Việt Nam.
Bài viết đăng trên Tạp chí Tài chính Kỳ 2 - Tháng 7/2020
Các khoản chi phí hợp lý khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp
Quy định về các khoản thuê văn phòng, nhà xưởng của cá nhân
Thuê xe ôto của cá nhân vào chi phí hợp lý
Quy định vê chi phí tiền lương giám đốc công ty tnhh một thành viên
No Comment